Aleksandr Aleksadrovich Blok (Алекса́ндр Алекса́ндрович Блок)(28 tháng 11 năm 1880 –
7 tháng 8 năm 1921) – nhà thơ, nhà văn, nhà
viết kịch, dịch giả, nhà phê bình người Nga. Là nhà thơ hàng đầu của trường
phái tượng trưng Nga, A. Blok cùng với những nhà thơ lớn khác làm nên một “Thế kỷ bạc” của thơ ca Nga.
Tiểu sử:
Aleksandr Aleksadrovich Blok sinh ngày 28 tháng 11 năm 1880 ở Sankt-Petersburg, trong một gia đình trí thức. Bố là một luật sư Ba Lan gốc Đức, mẹ là con gái của hiệu trưởng Đại học Saint-Petersburg. Lên 5 tuổi đã biết làm thơ. Tuổi nhỏ thường đến sống ở điền trang Shakhmatovo của ông ngoại vào những tháng hè. Những bài thơ về phong cảnh thiên nhiên Nga in trong tập “Thơ tuổi thiếu niên”( Отроческие стихи, 1922). Blok học khoa luật (1898-1901), sau đó học khoa ngôn ngữ (tốt nghiệp năm 1906) ở Đại học Saint-Petersburg. Blok biết làm thơ từ năm lên 5 tuổi, tuy nhiên sự đam mê thực sự bắt đầu từ những năm 1900 – 1901. Ông chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của triết học Platon, thơ trữ tình và triết học của Vladimir Solovyov, thơ của Afanasy Fet. Năm 1902 Blok làm quen với Zinaida Gippius và Dmitry Merezhkovsky, là những người có sự ảnh hưởng lớn tới ông: những tác phẩm đầu tay của ông được in ở tạp chí Con đường mới (Новый путь) của đôi vợ chồng này năm 1903. Năm 1904 ông làm quen với Andrei Bely, hai người trở thành những người bạn thân thiết.
Năm 1903 Blok cưới Lyubov Mendeleeva, con gái của
nhà bác học vĩ đại Dmitry Mendeleev. Kết quả của cuộc hôn nhân này là hơn 800
bài thơ viết về người phụ nữ này. Alexander Blok và Lyubov Mendeleeva đã quen
nhau từ thời còn thơ ấu. Thời tuổi trẻ Blok gọi Lyubov Mendeleeva là Trinh Nữ
huyền bí, Người Vợ muôn thuở, Người Đàn bà tuyệt vời. Những cuộc gặp gỡ tình cờ
trên các đường phố ở St. Petersburg được Blok coi là sự thần bí và mỗi lần như
vậy ông đều tin tưởng rằng Lyubov Mendeleeva là số phận của mình. Trong thơ,
ông đã thần tượng hóa và lý tưởng hóa người yêu dấu. Trong một bức thư gửi cho Lyubov
Mendeleeva, ông viết: “Em là mặt trời của tôi, bầu trời của tôi, niềm Hạnh phúc
của tôi. Tôi không thể sống mà không có Em ở cõi này cũng như cõi nọ. Em là điều
Bí ẩn đầu tiên và là niềm Hy vọng cuối cùng của tôi. Cuộc đời của tôi thuộc về Em
từ đầu đến cuối. Em hãy đem chơi nó nếu nó có thể mang lại cho Em một niềm vui.
Nếu có một khi nào tôi có thể làm một cái gì đó và để một cái gì đó in lại một
dấu vết thoáng qua của sao chổi thì tất cả sẽ là của Em, từ Em và cho Em. Tên
của Em ở đây là tuyệt vời, mênh mông và không thể hiểu được. Nhưng mà Em chẳng
có tên. Em – là Ngân vang, là Vĩ đại, là Đầy đủ, là Thiên thần của trái tim tôi
nghèo khổ, thảm hại và không đáng kể. Tôi đã từ lâu thấy Em là quá đỗi Lạ
thường”. Lyubov Mendeleeva trở thành không chỉ là người vợ mà còn là Nàng thơ,
nhờ đó mà các tác phẩm thơ ca tuyệt vời đã lần lượt ra đời.
Nhà thơ vĩ đại đã cưới Lyubov Mendeleeva vì
tình, nhưng ông lại không thể trở thành một người chồng tốt, mà nói một cách
nhẹ nhàng, là có phần kỳ quặc. Blok tin rằng tình yêu của thể xác không thể kết
hợp với sự gần gũi của tâm hồn và ngay trong đêm tân hôn ông đã cố gắng để giải
thích cho người vợ trẻ rằng sự hòa hợp về thể xác giữa họ sẽ không bao giờ có. Buổi
sáng sau “đêm tân hôn” Lyubov Blok bước
ra khỏi phòng ngủ với đôi mắt đỏ hoe vì khóc nhưng trong cô tràn ngập một sự
tuyệt vọng đầy cương quyết. Chẳng có gì mà cô tân nương tội nghiệp đã không
làm! Cô dùng tất cả các phương tiện truyền thống của sự quyến rũ: những bộ
trang phục thời trang nhất của các tiệm may nổi tiếng ở St. Petersburg, nước
hoa và váy áo từ Paris, bùa yêu từ các thầy lang thôn dã và thậm chí đã buông
lời ong bướm, tán tỉnh người bạn thân nhất của Blok là Andrei Bely. Một năm sau
Lyubov cũng cám dỗ được người chồng hợp pháp của mình, nhưng than ôi, sự gần
gũi lâu dài này cũng không mang lại cho cả hai người sự thỏa mãn về thể xác. Còn
Blok thì vẫn yêu thích sự “hòa hợp về tâm hồn” để không làm cho vợ thất vọng và
để không ly dị với nàng mặc dù ngoài tình cảm với Andrei Bely, Lyubov còn có
vài ba cuộc tình thoáng qua với những người đàn ông khác…
Năm 1909, có hai sự kiện đau buồn xảy ra trong
gia đình Blok: đứa con riêng của Lyubov Dmitrievna chết và cha của Blok qua
đời. Để tìm sự bình an, Blok và vợ đi sang Ý và Đức. Nhờ các bài thơ về nước Ý,
Blok được kết nạp vào hội văn chương có tên gọi là Viện hàn lâm cùng với
Valery Bryusov, Mikhail Kuzmin, Vyacheslav Ivanov, Innokenty Annensky. Mùa hè
năm 1911, Blok đi du lịch nước ngoài một lần nữa, lần này là đến Pháp, Bỉ và Hà Lan.
Trong cuộc cách mạng Tháng Mười, Blok đã không
đi ra nước ngoài như nhiều người khác mà ông làm việc trong nhà xuất bản của thành
phố Petrograd. Các sự kiện cách mạng ở đây được phản ánh trong tiểu sử của nhà
thơ, trong các bài thơ và trong trường ca Mười hai chiến sĩ (Двенадцать, 1918).
Trước khi chết, nhà thơ thường bị bệnh. Ông đề
nghị được cấp visa để đi ra nước ngoài chữa bệnh nhưng đã bị từ chối. Sau quyết
định như vậy, Blok đã từ chối ăn uống và thuốc men, đốt hết những bản thảo viết
tay đang dang dở của mình. Sống ở Petrograd giữa cảnh đói nghèo, Aleksandr Blok
chết vì bệnh tim vào ngày 7 tháng 8 năm 1921 trong độ tuổi 41 đang dồi dào sức
sáng tạo của mình.
Phong cách thơ của A. Blok hình thành trong sự phát
triển mạnh mẽ của trường phái thơ hình tượng, mà Blok là chủ soái. Thơ của Blok
được dịch ra nhiều thứ tiếng và được dịch nhiều sang tiếng Việt.
Tác phẩm:
*Стихи о Прекрасной Даме (Thơ về người đàn bà tuyệt vời, 1904), thơ
*Земля в снегу». Третий сборник стихов. — М.: «Золотое руно», 1907
*Стихи о Прекрасной Даме (Thơ về người đàn bà tuyệt vời, 1904), thơ
*Земля в снегу». Третий сборник стихов. — М.: «Золотое руно», 1907
*Город (Thành phố, 1904-1908), thơ
*Роза и крест (Hoa hồng và thập ác, 1912), kịch
*Родина (Tổ quốc, 1907-1916), thơ
*Возмездие (Trừng phạt, 1910-1921), thơ
*Двенадцать (Mười hai chiến sĩ, 1918), thơ
*Роза и крест (Hoa hồng và thập ác, 1912), kịch
*Родина (Tổ quốc, 1907-1916), thơ
*Возмездие (Trừng phạt, 1910-1921), thơ
*Двенадцать (Mười hai chiến sĩ, 1918), thơ
*Собрание
сочинений. Т. 1—12. — Л.: изд. писателей [1932—36].
*Собрание
сочинений в шести томах. Т. 1—6. — М.: ТЕРРА, 2009
1.NHỮNG BÔNG HỒNG NGÀY CŨ
Những bông hồng ngày cũ
Ta mang theo, một mình
Đi vào tuyết, giá băng
Con đường xa vời vợi.
Vẫn theo lối mòn xưa
Trên vai ta thanh kiếm
Kiếm đi cùng với ta
Trong áo sương che kín.
Kiếm đi theo và biết
Rằng tuyết đã dần tan
Đằng kia đang cháy hết
Ánh hoàng hôn cuối cùng.
Rằng với ta – ngày tàn
Chỉ màn đêm quạnh quẽ
Tự do từ nay sẽ
Không đi theo sau lưng.
Ở đâu, khi muộn màng
Ta tìm ra nơi ngủ
Những bông hồng ngày cũ
Đang rơi trên tuyết tan.
Chỉ trên tuyết màu hồng
Giọt nước mắt rơi xuống
Ta không còn hy vọng
Ta đợi phút lâm chung.
Còn kiếm vẻ lạnh lùng
Dìm hoa xưa vào tuyết.
1908
Старинные
розы
Старинные
розы
Несу,
одинок,
В снега
и в морозы,
И путь
мой далек.
И той
же тропою,
С мечом
на плече,
Идет он
за мною
В
туманном плаще.
Идет он
и знает,
Что
снег уже смят,
Что там
догорает
Последний
закат
Что нет
мне исхода
Всю
ночь напролет,
Что
больше свобода
За мной
не пойдет.
И где,
запоздалый,
Сыщу я
ночлег?
Лишь
розы на талый
Падают
снег.
Лишь
слезы на алый
Падают
снег.
Тоскуя
смертельно,
Помочь
не могу.
Он розы
бесцельно
Затопчет
в снегу.
1908
2.NƯỚC NGA
Bây giờ lại như những tháng năm vàng
Ba vòng đai lưng đã mòn đang run rẩy
Những nan hoa của bánh xe kết lại
Những bức tranh trong những bánh xe lăn.
Ôi nước Nga, ôi nước Nga nghèo khó
Nhà gỗ của Người màu xám thương sao
Những bài ca của Người trong gió
Đối với ta như nước mắt tình đầu!
Xót thương Người ta không biết làm sao
Cây thập ác của mình ta vẫn vác…
Người muốn để cho kẻ làm bùa phép
Thì vẻ tuyệt vời cướp bóc hãy trao!
Mặc cho ai dụ dỗ, dối lừa
Không quì gối, nước Nga không thể chết
Duy chỉ có điều lo lắng làm mờ
Những đường nét của Người tuyệt đẹp.
Thôi đành thế. Một nỗi lo nhiều hơn
Thêm giọt nước mắt, sông thêm ầm ĩ
Còn Người vẫn thế – rừng và cánh đồng
Và tấm khăn thêu trên đầu – vẫn thế.
Thành có thể cả điều không thể tưởng
Con đường dài lâu bỗng hoá nhẹ nhàng
Khi ánh lên ở miền xa thẳm
Ánh mắt nhìn dưới tấm khăn vuông
Khi bài hát người xà ích cẩn trọng
Đang vang lên thấm đượm một nỗi buồn.
1908
Россия
Опять,
как в годы золотые,
Три
стертых треплются шлеи,
И
вязнут спицы росписные
В
расхлябанные колеи...
Россия,
нищая Россия,
Мне
избы серые твои,
Твои
мне песни ветровые, -
Как
слезы первые любви!
Тебя
жалеть я не умею
И крест
свой бережно несу...
Какому
хочешь чародею
Отдай
разбойную красу!
Пускай
заманит и обманет, -
Не
пропадешь, не сгинешь ты,
И лишь
забота затуманит
Твои
прекрасные черты...
Ну что
ж? Одно заботой боле -
Одной
слезой река шумней
А ты
все та же - лес, да поле,
Да плат
узорный до бровей...
И
невозможное возможно,
Дорога
долгая легка,
Когда
блеснет в дали дорожной
Мгновенный
взор из-под платка,
Когда
звенит тоской острожной
Глухая
песня ямщика!..
1908
3.VỀ CHIẾN CÔNG, LÒNG DŨNG CẢM, VINH QUANG
Về chiến công, lòng dũng cảm, vinh quang
Anh đã quên trên mặt đất đau khổ
Khi gương mặt em trong khung ảnh nhỏ
Trước mặt anh rạng rỡ đặt trên bàn.
Nhưng đến giờ em đi khỏi nhà anh
Chiếc nhẫn thề anh vứt vào đêm vắng
Giờ người khác em gửi trao số phận
Anh đã quên rồi gương mặt đẹp xinh.
Ngày trôi đi, nguyền rủa xoáy thành đàn…
Rượu và đam mê làm đời anh tàn tạ…
Trước bàn cưới về em, anh chợt nhớ
Anh gọi em như tuổi trẻ của mình.
Anh gọi em nhưng em chẳng ngoái nhìn
Nước mắt anh em không thèm đoái tới
Trong chiếc áo choàng màu xanh quấn lại
Em ra khỏi nhà trong ẩm ướt đêm.
Anh không biết rằng cho kiêu hãnh của mình
Em đẹp xinh, dễ thương tìm đâu vậy…
Trong giấc ngủ, áo xanh anh mơ thấy
Chiếc áo mặc vào em đi khỏi trong đêm…
Giờ không còn mơ về trìu mến, vinh quang
Tất cả đi qua, tuổi trẻ không còn nữa!
Gương mặt em trong lồng khung ảnh nhỏ
Bàn tay anh đem cất khỏi chiếc bàn.
1908
О
доблестях, о подвигах, о славе
О
доблестях, о подвигах, о славе
Я
забывал на горестной земле,
Когда
твое лицо в простой оправе
Перед
мной сияло на столе.
Но час
настал, и ты ушла из дому.
Я
бросил в ночь заветное кольцо.
Ты
отдала свою судьбу другому,
И я
забыл прекрасное лицо.
Летели
дни, крутясь проклятым роем...
Вино и
страсть терзали жизнь мою...
И
вспомнил я тебя пред аналоем,
И звал
тебя, как молодость свою...
Я звал
тебя, но ты не оглянулась,
Я слезы
лил, но ты не снизошла.
Ты в
синий плащ печально завернулась,
В сырую
ночь ты из дому ушла.
Не
знаю, где приют твоей гордыне
Ты,
милая, ты, нежная, нашла...
Я
крепко сплю, мне снится плащ твой синий,
В
котором ты в сырую ночь ушла...
Уж не
мечтать о нежности, о славе,
Все
миновалось, молодость прошла!
Твое
лицо в его простой оправе
Своей
рукой убрал я со стола.
1908
4.ANH SỢ VÔ CÙNG
GẶP GỠ VỚI EM
Anh
sợ vô cùng
gặp gỡ với em
Mà càng sợ hơn nếu như không
gặp
Với
mọi thứ anh trở nên kinh ngạc
Nhìn thứ gì cũng
thấy dấu niêm phong.
Những chiếc bóng vẫn đi lại
trên đường
Anh
không hiểu – chúng sống hay là ngủ
Vào những bậc của nhà thờ anh dựa
Sợ
vô cùng nhìn lại
phía sau lưng.
Có bàn tay nào đặt trên vai
anh
Nhưng anh không còn nhớ
tên ai nữa
Có những tiếng bên tai anh
nghe rõ
Chỉ
mới đây thôi từ
những đám tang.
Còn bầu trời cau có xuống rất gần
Cả
ngôi đền
cũng bị trời che phủ
Anh
biết rằng: em ở đây. Rất gần
Em
không ở đây. Em đang đâu đó.
1902
Мне страшно с Тобой встречаться
Мне страшно с Тобой встречаться.
Страшнее Тебя не встречать.
Я стал всему удивляться,
На всем уловил печать.
По улице ходят тени,
Не пойму — живут, или спят.
Прильнув к церковной ступени,
Боюсь оглянуться назад.
Кладут мне на плечи руки,
Но я не помню имен.
В ушах раздаются звуки
Недавних больших похорон.
А хмурое небо низко —
Покрыло и самый храм.
Я знаю: Ты здесь. Ты близко.
Тебя здесь нет. Ты — там.
1902
5.NÀNG VẪN NHƯ XƯA ĐÃ TỪNG MONG MUỐN
Nàng vẫn như xưa đã từng mong muốn
Truyền cho tôi bằng hơi thở của
mình
Vào cho thân tôi ốm yếu gầy còm
Vào cho ngôi nhà của tôi giá lạnh.
Như bầu trời, nàng đứng trước mặt
tôi
Nhưng để đón nàng thì tôi không thể
Dù là đưa cánh tay đau vẫy nhẹ
Và nói rằng tôi vẫn nhớ khôn nguôi…
Tôi nhìn, mắt tôi mờ đục mất rồi
Khi nàng đứng bên cạnh tôi buồn bã
Giữa hai chúng tôi giờ không còn
nữa
Chẳng hạnh phúc, không hờn giận,
không lời…
Con tim tôi đã mệt mỏi lắm rồi
Vì đã sống bao ngày bao năm tháng
Mà niềm hạnh phúc thì luôn đến chậm
Trên những cỗ xe cuồng dữ không
thôi.
Và cuối cùng, tôi đã ốm liệt người
Mệt đã khác, thở bằng hơi thở khác
Tôi bằng lòng với hoàng hôn sắp tắt
Và chẳng sợ chi bóng tối muôn đời
Vĩnh hằng ghé nhìn vào đôi mắt tôi
Đặt vào trong con tim này tĩnh lặng
Của đêm xanh ẩm ướt và giá lạnh
Đống lửa âu lo xao xuyến dâng đầy…
1908
Она, как прежде, захотела
Она, как прежде, захотела
Вдохнуть дыхание свое
В мое измученное тело,
В мое холодное жилье.
Как небо, встала надо мною,
А я не мог навстречу ей
Пошевелить больной рукою,
Сказать, что тосковал о ней..
Смотрел я тусклыми глазами,
Как надо мной она грустит,
И больше не было меж нами
Ни слов, ни счастья, ни обид…
Земное сердце уставало
Так много лет, так много дней…
Земное счастье запоздало
На тройке бешеной своей!
Я, наконец, смертельно болен,
Дышу иным, иным томлюсь,
Закатом солнечным доволен
И вечной ночи не боюсь….
Мне вечность заглянула в очи,
Покой на сердце низвела,
Прохладной влагой синей ночи
Костер волненья залила…
1908
6.ÔI TÌNH YÊU, TÌNH TỰ DO
NHƯ CHIM
Ôi tình yêu, tình tự do như chim
Nhưng mà dù sao anh vẫn của em!
Dù sao rồi vẫn mơ trong giấc ngủ
Ngọn lửa của em, hình dáng của em.
Trong sức mạnh của bàn tay tuyệt
trần
Trong đôi mắt, nơi nỗi buồn phụ bạc
Cơn mê sảng của đam mê vô ích
Của bao đêm, em có hiểu, Carmen!
Anh sẽ hát về em, như trời xanh
Và anh mô tả giọng nói của em!
Như linh mục, sẽ thi hành nghĩa vụ
Với sao trời – vì ngọn lửa của em.
Em đứng lên như con sóng dữ dằn
Trong dòng sông những bài thơ anh đó
Từ bàn tay của mình anh không rửa
Hồn của em, có hiểu, hở Carmen…
Và trong giờ khắc thanh vắng của
đêm
Như ngọn lửa lấp lánh trong phút
chốc
Ánh lên cho anh hàm răng trắng toát
Và bóng hình em ám ảnh thường
xuyên.
Hy vọng ngọt ngào làm tội làm tình
Rằng bây giờ em ở nơi xa lạ
Thì em hãy nhớ một lúc nào đó
Trong kín thầm em hãy nhớ về anh.
Vì lo lắng, vì cuộc đời bão giông
Vì nỗi buồn của những điều phụ bạc
Ý nghĩ này sẽ trở nên nghiêm khắc
Và giản đơn, trắng toát như con
đường
Như con đường xa thẳm nhé, Carmen!
1914
О да, любовь вольна, как птица
О да, любовь вольна, как птица,
Да, все равно — я твой!
Да, все равно мне будет сниться
Твой стан, твой огневой!
Да, в хищной силе рук прекрасных,
В очах, где грусть измен,
Весь бред моих страстей напрасных,
Моих ночей, Кармен!
Я буду петь тебя, я небу
Твой голос передам!
Как иерей, свершу я требу
За твой огонь — звездам!
Ты встанешь бурною волною
В реке моих стихов,
И я с руки моей не смою,
Кармен, твоих духов…
И в тихий час ночной, как пламя,
Сверкнувшее на миг,
Блеснет мне белыми зубами
Твой неотступный лик.
Да, я томлюсь надеждой сладкой.
Что ты, в чужой стране,
Что ты, когда-нибудь, украдкой
Помыслишь обо мне…
За бурей жизни, за тревогой,
За грустью всех измен,—
Пусть эта мысль предстанет строгой,
Простой и белой, как дорога,
Как дальний путь, Кармен!
1914
7.NĂM THÁNG TRÔI QUA NHƯNG MÀ EM VẪN THẾ
Năm tháng trôi qua nhưng mà em vẫn thế
Vẫn tuyệt vời, vẫn sáng sủa và nghiêm
Chỉ mái tóc có phần hơi nhẵn nhụi
Trong tóc này màu bạc đã ánh lên.
Còn anh trên đống sách cao cúi mình
Một ông già còng lưng, cao lóng ngóng
Với ý nghĩ không thể nào cảm nhận
Nhìn vẻ mặt đầy tĩnh lặng của em.
Ừ thì ta thay đổi theo tháng năm.
Vẫn sống, thở như ngày ta đã sống
Và ta vẫn nhớ, ta vẫn giữ gìn
Ký ức của tháng năm không thể
tưởng…
Tro tàn ngày đó đã nằm trong bình
Hồn của ta trong bóng tối thiên
thanh
Và tất cả càng diệu kỳ, sáng sủa –
Ta thở bằng quá khứ trên đất bằng.
1906
Прошли года, но ты — все та же
Прошли года, но ты — все та же:
Строга, прекрасна и ясна;
Лишь волосы немного глаже,
И в них сверкает седина.
А я — склонен над грудой книжной,
Высокий, сгорбленный старик,—
С одною думой непостижной
Смотрю на твой спокойный лик.
Да. Нас года не изменили.
Живем и дышим, как тогда,
И, вспоминая, сохранили
Те баснословные года…
Их светлый пепел — в длинной урне.
Наш светлый дух — в лазурной мгле.
И все чудесней, все лазурней—
Дышать прошедшим на земле.
1906
8.XIN ĐA TẠ, CHÚC LÀNH CHO TẤT CẢ
Xin đa tạ, chúc lành cho tất cả
Tôi không đi tìm phận số tốt hơn
Biết bao người đã yêu hở com tim!
Ôi trí tuệ bao lần ngươi đã cháy!
Thôi cứ để hạnh phúc và đau khổ
In dấu vết đầy đau khổ đắng cay
Nhưng trong đam mê, buồn chán lâu
ngày
Tôi không mất ánh sáng ngày xưa cũ.
Còn em, anh khổ như người mới mẻ
Tha cho anh. Ta vẫn có hai người
Những gì em không nói được bằng lời
Anh nhận biết trong dáng hình em
nhé.
Đôi con mắt vẫn nhìn rất chăm chú
Con tim lo âu đập giữa ngực này
Trong đêm tối lạnh lẽo và tuyết rơi
Vẫn tiếp tục con đường mình chung
thủy.
1912
Благословляю всё, что было
Благословляю всё, что было,
Я лучшей доли не искал.
О, сердце, сколько ты любило!
О, разум, сколько ты пылал!
Пускай и счастие и муки
Свой горький положили след,
Но в страстной буре, в долгой скуке -
Я не утратил прежний свет.
И ты, кого терзал я новым,
Прости меня. Нам быть - вдвоем.
Всё то, чего не скажешь словом,
Узнал я в облике твоем.
Глядят внимательные очи,
И сердце бьет, волнуясь, в грудь,
В холодном мраке снежной ночи
Свой верный продолжая путь.
1912
9.HAI TÌNH YÊU
Hai tình yêu, một sương mù, một sáng
Như hai con đường đã trải – như nhau
Và tâm hồn đều mong muốn cả hai
Nhưng làm thế nào tìm ra đồng thuận?
Không gặp nhau và không hề ưng thuận
Cả hai tình trong thiện ác như nhau
Nhưng rõ ràng, tĩnh lặng – tình yêu
đầu
Tình thứ hai – trong sương mù, hỗn
loạn.
Hãy gọi cả hai là sự vinh quang
Và ngang nhau trong tán thành bí ẩn
Kẻ nô lệ tinh ranh và bướng bỉnh
Mang vật hiến sinh cho cả hai tình!
Nhưng trước sự trừng phạt hãy biết
run
Hãy biết sợ ngón tay đầy đe dọa:
Những khoái lạc của anh và ngọn lửa
Tất cả là tro, tất cả vô thường.
1912
_______________
*Đây là tình yêu đầu với Ksenia
Sadovskaya (Ostrovskaya khi chưa lấy chồng) và tình sau với Liubov Mendeleeva –
là vợ của nhà thơ.
Две любви
Любви и светлой, и туманной
Равно изведаны пути.
Они равно душе желанны,
Но как согласье в них найти?
Несъединимы, несогласны,
Они равны в добре и зле,
Но первый — безмятежно-ясный,
Второй — в смятеньи и во мгле.
Ты огласи их славой равной,
И равной тайной согласи,
И, раб лукавый, своенравный,
Обоим жертвы приноси!
Но трепещи грядущей кары,
Страшись грозящего перста:
Твои блаженства и пожары —
Всё — прах, всё — тлен, всё — суета.
1912
10.MỘT GIẤC NGỦ MƠ MÀNG
Một giấc ngủ mơ màng, màu sắc nở rộ
Ngày biến mất, ánh sáng không còn nữa.
Mở cửa sổ, tôi thấy tử đinh hương
Giữa mùa xuân – trong một ngày đang tàn.
Hoa nở bừng – trên thành gờ đen đúa
Bóng của áo bào chạy đi hớn hở.
Nỗi buồn ngạt thở, tâm hồn cháy lên
Tôi mở cửa sổ, run lẩy bẩy và run.
Không nhớ - từ đâu thổi vào giữa mặt
Hát lên, cháy lên, rồi ra giữa bậc thềm.
1902
Запевающий сон, зацветающий цвет
Запевающий сон, зацветающий цвет,
Исчезающий день, погасающий свет.
Открывая окно, увидал я сирень.
Это было весной — в улетающий день.
Раздышались цветы — и на темный карниз
Передвинулись тени ликующих риз.
Задыхалась тоска, занималась душа,
Распахнул я окно, трепеща и дрожа.
И не помню — откуда дохнула в лицо,
Запевая, сгорая, взошла на крыльцо.
1902
11.BẠN SỐNG MỘT MÌNH KHÔNG ĐI TÌM BẠN
Bạn sống một mình! Không đi tìm bạn
Không đi tìm người cùng có Đức tin
Bạn là con dao đâm chẳng tiếc thương
Vào con tim cho hạnh phúc mở rộng.
“Điên! Bạn đã có thể là người hạnh
phúc!..”
“Tại vì sao? Giữa giông bão của đời
Đằng nào thì ta cũng không thể nào
Giữ được niềm hạnh phúc mà không
chết!”
1914
Ты жил один! Друзей ты не искал
Ты жил один! Друзей ты не искал
И не искал единоверцев.
Ты острый нож безжалостно вонзал
В открытое для счастья сердце.
«Безумный друг! Ты мог бы счастлив быть!..»
«Зачем? Средь бурного ненастья
Мы, всё равно, не можем сохранить
Неумирающего счастья!»
1914
12.TÔI SỐNG ĐÂY MÀ CHẲNG CÓ LÒNG
TIN
Tôi sống đây mà chẳng có lòng
tin
Và tôi cũng
chẳng cần chi hy vọng
Linh
hồn của tôi vốn đầy
lo lắng
Cuộc đời ban cho tôi nỗi vui mừng.
Cuộc đời chẳng hề cho tôi đức tin
Tôi đi tìm Thượng Đế khắp mọi chốn
Một ý nghĩ vẫn đợi chờ lo lắng
Trí tuệ than thân trách phận điên
cuồng.
Chẳng có hy vọng cho tôi trên trần
Còn khổ đau tôi chờ và thấy trước:
Ở trong mặt nước như gương rất sạch
Trong gương kia thứ khác chẳng đi
tìm.
Tôi vẫn giữ trong đời vẻ lặng yên
Và gìn giữ trong đời niềm vui sướng
Tôi vẫn sống mà chẳng có lòng tin
Và tôi cũng chẳng cần chi hy vọng.
1898
Я и без веры живой
Я и без веры живой,
Мне и надежды не надо!
Дух мой тревожный, родной
Жизнь наделила отрадой.
Веры мне жизнь не дала,
Бога везде я искал,
Дума тревожно ждала,
Разум мятежно роптал.
Нет мне надежды нигде,
Горе предвижу и жду:
В чистой зеркальной воде
Чуждого ей не найду.
О, я храню как покой
Лучшую в мире отраду...
Я и без веры живой,
Мне и надежды не надо!
1898
13.KHI LÀ TIẾNG VANG CỦA THÁNG NGÀY XANH
Khi là tiếng vang của tháng ngày xanh
Bỗng thức dậy trong hồn rồi chết lặng
Trong ánh của tia bình minh buổi
sáng
Ngỡ như rằng đêm từng đã lặng câm.
Khi là giấc mơ trước buổi bình minh
Và tinh thần ở trên bờ thức tỉnh
Khi tỉnh giấc kêu lên và mê sảng
Một bóng hình từ lâu đã qua nhanh.
Khi là cơn tức thời chẳng hề tiếc
thương
Của ý nghĩ vĩnh hằng ngoài điều ngờ
vực
Và nó đã biến nhanh, rồi thức giấc
Những đám đông linh cảm đã từng
quên.
Khi là vô tận vô cùng mang theo
Những cơn bão trên linh hồn sa ngã
Khi là Muôn thuở - Trẻ trung qua đó
Vào màn sương không có ánh sáng
nào.
1900
То отголосок юных дней
То отголосок юных дней
В душе проснулся, замирая,
И в блеске утренних лучей,
Казалось, ночь была немая.
То сон предутренний сошел,
И дух, на грани пробужденья,
Воспрянул, вскрикнул и обрел
Давно мелькнувшее виденье.
То был безжалостный порыв
Бессмертных мыслей вне сомнений.
И он умчался, пробудив
Толпы забытых откровений.
То бесконечность пронесла
Над падшим духом ураганы.
То Вечно-Юная прошла
В неозаренные туманы.
1900
14.GƯƠNG MẶT CỦA EM ANH ĐÃ TỪNG QUEN
Gương mặt của em anh đã từng quen
Có vẻ như em sống cùng anh vậy
Khi làm khách, ở nhà hay ngoài phố
Anh nhìn ra thanh mảnh một hình nghiêng.
Tiếng bước chân em vang sau lưng
anh
Anh bước vào đâu thì em ở đó
Có phải em bằng bước chân khe khẽ
Vẫn đi sau lưng anh đó hằng đêm?
Có vẻ như em vừa mới đi ngang
Anh vừa mới ghé nhìn ra cánh cửa
Một nửa không khí, không nhìn thấy
rõ
Giống như giấc mơ đâu đó đã từng?
Anh thường nghĩ liệu có phải em
không
Giữa nghĩa trang, phía sau nhà đựng
lúa
Em ngồi đấy, lặng im, trên ngôi mộ
Trong chiếc khăn hoa bằng vải của
mình?
Em ngồi đó – khi anh đi đến gần
Anh đến nơi thì em liền đi khỏi
Em hát lên và em đi xuống suối
Giọng của em hòa vào tiếng của
chuông
Đáp lại bằng tiếng chuông buổi
chiều hôm…
Anh đã khóc và rụt rè chờ đợi…
Nhưng mà rồi sau tiếng chuông buổi
tối
Giọng thân thương của em đã lặng
ngừng…
Giây lát nữa – câu trả lời vẫn
không
Và chiếc khăn thấp thoáng bên bờ
suối…
Nhưng anh khổ sở biết rằng đâu đấy
Anh sẽ hãy còn gặp lại cùng em.
1908
Твое лицо мне так знакомо
Твое лицо мне так знакомо,
Как будто ты жила со мной.
В гостях, на улице и дома
Я вижу тонкий профиль твой.
Твои шаги звенят за мною,
Куда я ни войду, ты там.
Не ты ли легкою стопою
За мною ходишь по ночам?
Не ты ль проскальзываешь мимо,
Едва лишь в двери загляну,
Полувоздушна и незрима,
Подобна виденному сну?
Я часто думаю, не ты ли
Среди погоста, за гумном,
Сидела, молча, на могиле
В платочке ситцевом своем?
Я приближался - ты сидела,
Я подошел - ты отошла,
Спустилась к речке и запела...
На голос твой колокола
Откликнулись вечерним звоном...
И плакал я, и робко ждал...
Но за вечерним перезвоном
Твой милый голос затихал...
Еще мгновенье - нет ответа,
Платок мелькает за рекой...
Но знаю горестно, что где-то
Еще увидимся с тобой.
1908
15.BUỔI HOÀNG HÔN
Buổi hoàng hôn, hoàng hôn của mùa xuân
Những con sóng lạnh lùng ở dưới chân
Trong con tim – hy vọng nơi nào đó
Những con sóng đang chạy trên cát
vàng.
Những tiếng vọng và bài hát xa xăm
Nhưng phân biệt chúng thì anh không
thể.
Tâm hồn cô đơn đang khóc nức nở
Ở một bờ bến khác thật xa xăm.
Có phải điều bí ẩn đã sắp xong
Có phải em gọi anh từ xa vắng?
Con thuyền tròng trành và sắp chìm
nghỉm
Có cái gì như đang chạy trên sông.
Trong con tim – hy vọng nơi nào đó
Có ai kia ra gặp – anh chạy nhanh
Ánh phản chiếu và hoàng hôn mùa
xuân
Và những tiếng kêu ở bờ bến nọ.
1901
Сумерки, сумерки вешние
Сумерки, сумерки вешние,
Хладные волны у ног,
В сердце — надежды нездешние,
Волны бегут на песок.
Отзвуки, песня далекая,
Но различить — не могу.
Плачет душа одинокая
Там, на другом берегу.
Тайна ль моя совершается,
Ты ли зовешь вдалеке?
Лодка ныряет, качается,
Что-то бежит по реке.
В сердце — надежды нездешние,
Кто-то навстречу — бегу…
Отблески, сумерки вешние,
Клики на том берегу.
1901
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét